Home / Danh Sách Tổng Hợp / Top 7 Bài thơ hay của Đại thi hào Nguyễn Du

Top 7 Bài thơ hay của Đại thi hào Nguyễn Du

Phụ Lục Bài Viết

Bài thơ: Thôn dạ

Thôn dạ

Thanh thảo thôn tiền ngoạ lão ông,
Giang nam dạ sắc thướng liêm lung.
Mãn thiên minh nguyệt nhất trì thuỷ,
Bán bích hàn đăng vạn thụ phong.
Lão khứ vị tri sinh kế chuyết,
Chướng tiêu thời giác túc tâm không.
Niên niên kết đắc ngư tiều lữ,
Tiếu ngạo hồ yên dã thảo trung.

Dịch nghĩa


Phía trước thôn Thanh Thảo có một ông già nằm khoèo,
Bóng tối trên bờ sông nam đã phủ dần lên bức mành.
Vầng trăng sáng đầy trời rọi xuống mặt nước ao,
Ngọn đèn lạnh treo trên vách leo lét trước làn gió muôn cây.
Già rồi mà vẫn chưa biết mình vụng đường sinh kế,
Hết nghhiệp chướng mới thấy tấm lòng xưa nhẹ nhõm.
Làm bạn với khách tiều ngư hết năm này sang năm khác,
Và cười ngạo nghễ giữa khói mặt hồ và đồng cỏ nội.

Lời bình:

Bài thơ “Thôn dạ” được trích trong cuốn “Thanh Hiên thi tập” (viết trong khoảng 1785-1802, khi Nguyễn Du lánh ẩn ở quê vợ, Thái Bình, rồi trở về Hồng Lĩnh và ra lại Bắc Hà làm quan triều Gia Long) có một giọng u trầm thấm thía, đầy cảm xúc nội tâm.

Bài thơ: Đối tửu

Đối tửu


Phu toạ nhàn song tuý nhãn khai,
Lạc hoa vô số há thương đài.
Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,
Tử hậu thuỳ kiêu mộ thượng bôi?
Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ,
Niên quang ám trục bạch đầu lai.
Bách kỳ đãn đắc chung triêu tuý,
Thế sự phù vân chân khả ai.

Dịch nghĩa

Ngồi xếp bằng tròn trước cửa sổ, rượu vào hơi say mắt lim dim,
Vô số cánh hoa rơi trên thảm rêu xanh.
Lúc sống không uống cạn chén rượu,
Chết rồi, ai rưới trên mồ cho?
Sắc xuân thay đổi dần, chim hoàng oanh bay đi,
Năm tháng ngầm thôi thúc đầu bạc.
Cuộc đời trăm năm, chỉ mong say suốt ngày.
Thế sự như đám mây nổi, thật đáng buồn.


Lời bình:

Tâm sự Nguyễn Du qua Đối tửu là tâm sự của bậc anh hùng, Người đã đám đương đầu với Nguyễn Huệ, hiễu rất rõ Gia Long, Minh Mệnh là những vị vua tài trí và gian hùng, biết trọng dụng nhân tài nhưng kiềm chế và đa nghi. Nguyễn Du đã từng là chánh sứ đứng đầu về ngoại giao với triều Thanh. Người cũng là hàn lâm đại học sĩ đứng đầu về giáo dục, là quan cai bạ đầu tỉnh trọng yếu sát cạnh cố đô. Nguyễn Du hiếu thấu kinh Kim Cương, sâu sắc Kinh Dịch, Phong Thủy và Nhân tướng học, uyên thâm mọi mặt về lịch sử, địa lý, văn hóa, xã hội và ngôn ngữ, nhưng cẩn trọng và khiêm nhường hiếm thấy.

Bài thơ: Vọng Phu thạch

Vọng Phu thạch

Thạch da? Nhân da? Bỉ hà nhân?
Độc lập sơn đầu thiên bách xuân
Vạn kiếp diểu vô vân vũ mộng,
Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân.
Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ,
Đài triện trường minh nhất đoạn văn.
Tứ vọng liên sơn diểu vô tế,
Độc giao nhi nữ thiện di luân.

Dịch nghĩa


Đá chăng? Người chăng? Là ai đấy nhỉ?
Đứng một mình trên ngọn núi hàng ngàn năm nay.
Muôn kiếp không bao giờ có mộng mây mưa,
Tấm thân giữ được trinh tiết mãi mãi.
Mưa thu như dòng lệ chảy không ngớt,
Lớp rêu như ghi lại một bài văn ca tụng nàng.
Nhìn bốn phía núi non từng từng lớp lớp,
Luân thường chỉ dành riêng cho bạn gái chăng?

Nguồn: Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Trần Văn Nhĩ, NXB Văn Nghệ, 2007

Lời bình: 

Bài thơ này được trích trong tập “Làm quan ở Bắc Hà” (1802-1804). Bài thơ là một sự cảm thông của tác giả đối với thân phạn người phụ nữ ở thuở bấy giờ.

“Luân thường chỉ dành riêng cho bạn gái chăng?”

Bài thơ: Văn tế thập loại chúng sinh

Văn tế thập loại chúng sinh

Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.

5. Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào là chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
10
. Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
15
. Còn chi ai quí ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
20.
Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
25.
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
30
. Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!

Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
35
. Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
40
. Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.

Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.

45. Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
50.
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
55.
Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.

Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
60
. Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
65.
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

Cũng có kẻ tính đường trí phú,
70.
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như không,
75
. Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm,
80
. Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?

Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?
85.
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
90
. Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.

Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
95
. Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.

Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
100
. Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

Cũng có kẻ mắc vào khoá lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
105.
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.

Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
110
. Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
115.
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
120.
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?

125. Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
130
. Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
135
. Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
140
. Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
145
. Hoặc là nương thần từ, Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.

Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,
150
. Gan héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
155
. Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hoà tứ hải quần chu,
160
. Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
165
. Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
170
. Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
175
. Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
180
. Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sình.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đàì

Bài này còn gọi là Văn chiêu hồn hay Văn tế chiêu hồn.

Trích đoạn bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.

Nguồn: Văn tế cổ và kim, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1960

Lời bình

Bài văn chiêu hồn đã mô tả cảnh khổ đau của mọi hạng người trong xã hội từ những kẻ quyền thế cao sang đến người xó chợ đầu đường. Tất cả mọi người không ai có thể khước từ cái chết. Tuy “mỗi người một nghiệp khác nhau” nhưng cầu Nại Hà thì không ai có thể không bước qua, chỉ là “kẻ trước người sau mà thôi!

Cụ Nguyễn Du đã tả cảnh bi thương từ dương gian đến âm phủ: từ tiết đầu thu ảm đạm, thê lương của cõi dương chuyển sang cảnh “trường dạ tối tăm” bi thiết của cõi âm… để nêu ra các loại chúng sanh với những nghiệp cảnh khác nhau nhưng tựu trung đều bi thảm giống nhaụ. Nói là “thập loại” nhưng bài văn đã kể ra cả thảy 16 nghiệp cảnh. Chữ “mười” ở đây không phải là số đếm thông thường mà là tiếng tượng trưng cho sự rộng khắp, toàn vẹn như trong cách nói “mười phân vẹn mười”, “nhân vô thập toàn”…

Bài thơ: Thác lời trai phường nón

Thác lời trai phường nón

Tiếc thay duyên Tấn phận Tần,
Chưa quen đã lạ chưa gần đã xa.
Chưa chi đông đã rạng ra,
Đến giờ vẫn giận con gà chết toi.
Tím gan cho cái sao Mai,
Thảo nào vác búa chém trời cũng nên.
Về qua liếc mắt trông miền,
Lời oanh giọng ví chưa yên dằm ngồi.
Giữa thềm tàn đuốc còn tươi,
Bã trầu chưa quét nào người tình chung.
Hồng Sơn cao ngất mấy trùng,
Đò Cài mấy trượng thì tình bấy nhiêu.
Làm chi cắc cớ lắm điều,
Mới đêm hôm trước lại chiều hôm nay.
Khi xa xa đến thế này,
Tiếng xa nghe hãy rù rì bên tai.
Quê nhà nắng sớm mưa mai,
Đã buồn giở đến lịp tơi càng buồn.
Thờ ơ bó vọt đống sườn,
Đã nhàm bẹ móc lại hờn nắm giang.
Trăng tà chênh chếch bóng vàng,
Dừng chân thoạt nhớ đến đàng cửa truông.
Thẩn thơ gối chiếc màn suông,
Rối lòng như sợi ai guồng cho xong.
Phiên nào chợ Vịnh ra trông,
Mồng ba chẳng thấy lại hòng mười ba.
Càng trông càng chẳng thấy ra,
Cơi trầu quyệt đã vài và lần ôi.
Tưởng rằng nói thế mà chơi.
Song le đã động lòng người lắm thay.
Trông trời trời cách tầng mây,
Trông trăng trăng hẹn đến ngày ba mươi.
Vô tình trăng cũng như người,
Một ta ta lại ngậm cười chuyện ta.

Lời bình:

Hoàng Xuân Hãn cho rằng Nguyễn Du sáng tác bài Thác lời trai phường nón lúc khoảng 19, 20 tuổi và bài Văn tế Trường Lưu nhị nữ sau đó mấy năm, lúc chưa đến 25 tuổi. Ông còn cho rằng chàng trai trong bài thơ rất có thể là của Nguyễn Du. Nguyễn Thạch Giang cho rằng bài Thác lời trai phường nón sáng tác vào khoảng 16-19 tuổi còn bài Văn tế Trường Lưu nhị nữ vào quãng 1796-1802, thậm chí vào những năm cuối của các năm đó, tức bài sau cách bài trước khoảng 16-20 năm, lúc Nguyễn Du ở vào độ tuổi 32-38.

Bài thơ: Khất thực

Khất thực

Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên,
Triển chuyển nê đồ tam thập niên.
Văn tự hà tằng vi ngã dụng ?
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên!

Dịch nghĩa

Tựa kiếm dài, ngạo nghễ nhìn trời xanh,
Lăn lộn trong đám bùn dơ ba mươi năm nay.
Văn chương nào đã dùng được việc gì cho ta ?
Đâu ngờ phải đói rét để người thương

Lời bình:
Đây là bài thơ được trích trong tập “Mười năm gió bụi” của Nguyễn Du (1786-1795). Thơ chữ Hán Nguyễn Du như một tiếng thở dài luận bàn nhân tâm thế sự và xót thương thân phận. Một hình ảnh trở đi trở lại là mái tóc bạc, Nguyễn Du có mái tóc bạc sớm, mái tóc như biểu tượng của lo nghĩ, của những nghiền ngẫm buồn thương và bế tắc.

Bài thơ: Hồi 01

Hồi 01

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu.
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
5. Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình có lục còn truyền sử xanh.
Rằng: năm Gia Tĩnh triều Minh,
10. Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung,
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia.
15. Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần.
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
20. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc vẫn là phần hơn.
25. Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
30. Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.
35. Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Lời bình:

Hồi 01 trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ở xã hội phong kiến thời xưa, người phụ nữ không được tôn vinh, coi trọng mà ngược lại, họ bị chà đạp không thương tiếc. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã vượt qua sự bất công đó với tấm lòng nhân đạo của mình. Ông hết sức nâng niu, đề cao vẻ đẹp và tài năng của người phụ nữ. Không những thế, ông còn thương cảm trước số phận của họ. Tất cả những điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn trích Chị em Thuý Kiều trong Truyện Kiều. Đoạn thơ còn cho thấy nghệ thuật tả người điêu luyện của Nguyễn Du. Để giới thiệu chung về chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du đã có bốn cậu thơ đầu đầy ấn tượng:

Đầu lòng hai ả tổ nga
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Trả lời